Kỹ Năng Kinh Doanh

Phân tích SWOT là một bài phân tích rất phổ biến trong công việc kinh doanh dùng để đo lường điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp khi tiếp cận thị trường. Nhiều người vẫn tin rằng phân tích SWOT chỉ phù hợp với kinh doanh thôi, vì nó là một bảng đánh giá giúp doanh nghiệp vượt qua những thách thức cản trở trong quá trình kinh doanh, và nó cũng giúp tìm ra những thị trường tiềm năng mới khác. Nhưng bạn hãy nghĩ lại… bởi vì phân tích SWOT bản thân cũng là một công cụ hữu hiệu để bạn tự tìm hiểu về bản chất của chính bạn tốt hơn, cũng tương tự như khi phân tích bất kỳ một kế hoạch kinh doanh nào.
Đối với phát triển cá nhân, trong bất kỳ lĩnh vực nào của cuộc sống, nó cũng đều là một công cụ dễ quản lý và hữu hiệu. Nó có thể giúp bạn đánh giá khả năng con người thực của bạn để đạt được những mục tiêu trong cuộc sống như:
- Sự nghiệp
- Phát triển các mối quan hệ cá nhân, và
- Phát triển kỹ năng bản thân.
Bạn có thể sử dụng kết quả phân tích này để phát triển nhân cách bằng cách duy trì thúc đẩy những điểm mạnh và liên tục bồi đắp xây dựng dựa trên những cơ hội, đồng thời bạn có thể kìm hãm những điểm yếu và lường trước được những rủi ro.
Những ai nên dùng bản phân tích SWOT này?
Phân tích SWOT cho phát triển bản thân rất phù hợp cho những người:
Nhà quản lý, Chủ doanh nghiệp
Nhà chuyên môn, Chuyên viên cấp cao
Sinh viên
Người khởi sự sự nghiệp
Quản lý nhân sự
Giáo sư bác sĩ
Kỹ sư
Người làm thuê
Vợ và chồng
Bố mẹ
Tiến hành Phân tích SWOT cho bản thân như nào?
Để tiến hành phân tích SWOT, bạn phải xác định được rõ mục tiêu hay những thành công mà bạn muốn phấn đấu đạt được, rồi mới đến phần tiếp theo là phân tích để hiểu rõ về bạn và môi trường bên ngoài có thể tác động đến bạn như thế nào.
Điểm mấu chốt để hoàn thành bản phân tích SWOT một cách hoàn hảo là bạn phải coi mục tiêu của bạn như là một công ty kinh doanh và bạn chính là một sản phẩm cạnh tranh.
Phân tích SWOT cho bản thân không phải là khó lắm. Trước khi cầm giấy bút và ghi những điểm cơ bạn xuất hiện trong đầu bạn, bạn cần phải làm brainstorming (động não) trước. Bạn mà tiến hành phân tích SWOT vội vã quá sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Bạn cần phải liệt kê một danh sách thật chi tiết, đơn giản và quan trọng nhất là phải rất thực tế. Bạn có thể tham khảo thêm ý kiến của bạn thân hoặc người nhà góp thêm nhận định chung của họ về bạn để có cái nhìn khách quan cho bản phân tích SWOT này, nhưng không nên so sánh với những người khác.
Tiếp theo bạn vẽ 4 ô ghi S – Điểm mạnh, W – Điểm yếu, O – Cơ hội, T – Thách thức và liệt kê các mục vào từng ô như hình vẽ.
Sau khi liệt kê cách những gì bạn vừa brainstorming, có thể bạn sẽ bị lẫn lộn giữa việc sắp xếp các điểm liệt kê vào từng mục trong 4 ô của bảng phân tích. Điểm mạnh chính là những tính cách cá nhân và những nguồn lực mà bạn khác biệt với nhiều người khác. Bất kỳ thói quen hay kỹ năng nào mà bạn thấy cần phải cải thiện hay loại bỏ sẽ được đưa vào mục điểm yếu.
Cơ hội bao gồm những lợi ích tiềm năng xuất phát từ môi trường bên ngoài tuân theo xu hướng hiện tại và cách mà bạn khai thác chúng thành lợi thế của bạn. Thách thức bao gồm những thứ gây cản trở con đường của bạn đi tới thành công. Nó cũng có thể là những điểm mạnh của người khác mà có thể gây thách thức đối với bạn.
Điểm khó nhất của công cụ này chính là khả năng xác thực hóa kết quả phân tích. Vì bạn đang tiến hành tự phân tích SWOT, nên có rất có khả năng là kết quả có thể mang tính định kiến. Kết quả này rất chủ quan và có thể có nhiều yếu điểm. Tuy nhiên tính thiếu trách nhiệm mới là nhân tố quan trọng nhất vì bạn không có động lực thay đổi chính mình.
Các yếu tố trong bản phân tích SWOT bản thân
Với mỗi phần của bản phân tích SWOT hãy tự đặt một số câu hỏi. Bạn có thể tham khảo một số câu hỏi dưới đây và tự nghĩ cho mình những câu hỏi phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu của riêng bạn.
ĐIỂM MẠNH
Những điểm mạnh của bạn mà người khác không có? Bao gồm những kỹ năng, giáo dục, các mối quan hệ.
Bạn giỏi hơn người khác những gì?
Những nguồn lực cá nhân nào mà bạn có sẵn?
Những người khác nhìn nhận bạn có những điểm mạnh gì?
Những thành tích nào của chính mình mà bạn cảm thấy tự hào nhất?
Những giá trị nào mà bạn tin rằng người khác không thể hiện được?
Bạn có tham gia một mạng lưới nào mà người khác không tham gia không? Những mối quan hệ bạn có với những người có tầm ảnh hưởng lớn là gì?
ĐIỂM YẾU
Bạn thường lẩn tránh những việc gì bởi vì bạn thiếu tự tin?
Những người khác nghĩ điểm yếu của bạn là gì?
Bạn có vừa lòng với kiến thức và kỹ năng bạn đang có không?
Bạn có bất kỳ thói quen làm việc xấu nào không?
Những nét tính cách cá nhân nào làm bạn trì trệ?
CƠ HỘI
Những công nghệ tiên tiến nào có thể hỗ trợ bạn?
Bạn có thể tạo được ưu thế của mình trong môi trường hiện tại không?
Bạn có mạng lưới các mối quan hệ chiến lược nào có thể đưa ra những lời khuyên bổ ích hoặc giúp được bạn không?
Có bất kỳ đối thủ nào của bạn không có khả năng làm được việc gì đó quan trọng không? Bạn có tận dụng được ưu thế nào không?
Liệu có vị trí nào trong công ty bạn mà không ai phù hợp không?
Bạn có tự tạo được cơ hội cho mình bằng cách đưa ra các giải pháp cho các vấn đề?
THÁCH THỨC
Bạn phải đối mặt những trở lực gì trong công việc?
Có đồng nghiệp nào đang cạnh tranh trong vị trí của bạn không?
Công việc của bạn có đang thay đổi không?
Những thay đổi về công nghệ mới có đe dọa vị trí của bạn không?
Những điểm yếu nào của bạn có thể dẫn tới những mối đe dọa?
Kết luận
Phân tích SWOT có thể dùng làm công cụ tự đánh giá bản thân và giúp bạn phát triển cá nhân. Tuy nhiên bạn cần phải chú ý tới các hạng mục đánh giá sao cho thật khách quan, tự xét, tự phê bình và tự kiểm điểm để tìm ra những điểm mạnh yếu và cơ hội cũng như thách thức để tự tạo động lực thay đổi chính bạn.
Theo Jenny Lý Hà Thu
- Details
- Category: Lý Thuyết Marketing
- Hits: 6979

Trong một mô hình dịch vụ luôn có khoảng cách giữa khách hàng và nhà cung cấp. Để xóa được khoảng cách đó, cần có niềm đam mê tạo dựng giá trị và các mối quan hệ khách hàng đủ để đem lại giá trị cho loại chất lượng dịch vụ (CLDV) doanh nghiệp cung cấp.
- Details
- Category: Chiến Lược Marketing
- Hits: 5875

Bất kỳ công ty công nghiệp nào, nếu muốn vẫn còn tồn tại trong 20 năm nữa, đều phải ra sức phát triển công nghệ và năng lực kỹ thuật số.
- Details
- Category: Lý Thuyết Marketing
- Hits: 4165

Một doanh nghiệp muốn tồn tại chắc chắn phải có sản phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm không phải là thứ duy nhất mà doanh nghiệp nên tập trung vào. Xây dựng thương hiệu là một trong những việc mà công ty cần phải chú trọng hàng đầu.
Hãy tưởng tượng bạn đang trong siêu thị, và bạn cần phải chọn một hộp sữa, bạn sẽ chọn Vinamilk, TH true milk, hay một hãng sữa không tên tuổi nào đó? Tất nhiên, bạn sẽ chọn hãng sữa bạn hay uống hoặc đã nghe tên nhiều trên truyền thông hoặc qua bạn bè, chứ không phải chọn đại bất kỳ loại nào cũng được. Đó chính là ý nghĩa của thương hiệu.
Để có thể xây dựng một thương hiệu, bạn cần tạo ra một chuẩn mực nhất định cho sản phẩm, từ đó xây dựng niềm tin cho khách hàng. Tuy nhiên những thương hiệu nổi tiếng, chiếm lĩnh thị trường không chỉ đem lại cho khách hàng của họ sự hài lòng về sản phẩm mà còn cả sự hài lòng về mặt cảm xúc. Họ khơi gợi những cảm xúc tích cực khi khách hàng sử dụng sản phẩm/dịch vụ của họ, giúp người dùng nhớ đến thương hiệu, tin tưởng thương hiệu và rồi trở thành những khách hàng trung thành.
Những công ty chỉ tập trung phát triển và quảng bá những sản phẩm với kỹ thuật mới sẽ dần dần bị thay thế bởi những thương hiệu khác khi kỹ thuật đó không còn mới lạ nữa hoặc bị thay thế bởi các công nghệ tiến bộ hơn. Mà theo thời gian, công nghệ sẽ luôn luôn tiến bộ hơn.
Đừng quá chú tâm vào những cải tiến trong sản phẩm mà hãy đầu tư nhiều hơn vào thông điệp, câu chuyện mà bạn muốn gửi tới khách hàng của mình. Dưới đây là 5 nguyên nhân tại sao bạn nên xây dựng một thương hiệu mạnh thay vì quảng bá mạnh một sản phẩm:
1. Thương hiệu tạo sự tin tưởng nơi khách hàng
Bản chất con người vốn luôn cố gắng né tránh nguy hiểm và hướng đến những lựa chọn an toàn. Nếu thương hiệu mà bạn đang dùng liên tục cho bạn những sản phẩm chất lượng và trải nghiệm tích cực, bạn sẽ hình thành sự tin tưởng, tín nhiệm đối với thương hiệu đó và cảm thấy thoải mái hơn khi mua sản phẩm.
2. Thương hiệu tạo sự khác biệt
Trong một cửa hàng sẽ có vô vàn những sản phẩm khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Vậy điều gì khiến họ mua của bạn mà không phải của một công ty nào khác? Câu trả lời là do thương hiệu. Sự ảnh hưởng của thương hiệu và những gì thương hiệu mang lại chính là điểm khác biệt làm người dùng quyết định chọn sản phẩm/dịch vụ của bạn.
3. Thương hiệu giúp tăng giá trị
Tại sao người tiêu dùng chấp nhận trả giá cao hơn cho sản phẩm có thương hiệu thay vì sản phẩm với chất lượng tương đương của một hãng không tên tuổi? Do chất lượng? Vẻ ngoài bao bì? Cảm giác mà thương hiệu mang lại? Hay do vị trí thương hiệu trên thị trường? Câu trả lời là cả 3 yếu tố trên. Một thương hiệu thành công là một thương hiệu có thể kiếm nhiều tiền hơn từ việc cam kết sẽ luôn luôn đem lại cho khách hàng những trải nghiệm sản phẩm và dịch vụ tốt nhất.
4. Thương hiệu thể hiện cá tính
Bạn đang sử dụng diện thoại hiệu gì? Xe bạn đang chạy là của hãng nào? Nhãn hiệu giày bạn yêu thích là gì?
Những thương hiệu bạn sử dụng sẽ góp phần khẳng định cá tính của bạn. Đôi khi ta sẽ gắn bó với một thương hiệu đến mức xem nó như một tuyên ngôn phong cách của ta vậy.
5. Thương hiệu cho khách hàng cơ hội chia sẻ
Dù cho đó là một quyển sách, một bộ phim, hay một món ăn, ta đều sẽ có những suy nghĩ khác nhau về nó. Tương tự, với thương hiệu, ta cũng có suy nghĩ, cảm giác khác nhau, và ta thích chia sẻ suy nghĩ của ta với những người xung quanh. Khi khách hàng làm việc đó, họ trở thành người đại diện cho thương hiệu.
Trong thời đại truyền thông số với thông tin được cập nhật một cách nhanh chóng và dễ dàng như hiện nay, người tiêu dùng càng nắm trong tay nhiều sức ảnh hưởng. Vì vậy, những thương hiệu tốt và chú trọng đến lợi ích của người dùng sẽ được chính khách hàng khen ngợi và chia sẻ những trải nghiệm tích cực mà họ đã có được cho mọi người xung quanh.
Theo thời gian, những sản phẩm sẽ hết hạn, bao bì tinh xảo cũng không còn hợp trào lưu, những đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ lần lượt xuất hiện. Những công ty chỉ quan tâm đến sản phẩm sẽ không thể đứng vững trên thị trường khi những điều đó xảy ra, còn một thương hiệu được đầu tư xây dựng hình ảnh, giá trị, chất lượng và có được sự tin tưởng, lòng trung thành từ khách hàng thì sẽ không thể bị thay thế. Hãy xây dựng một thương hiệu riêng cho bạn.
HOÀNG ANH (theo Entrepreneur)
- Details
- Category: Chiến Lược Thương Hiệu
- Hits: 2533

Sự kiện ra mắt siêu phẩm Pokémon Go ra đời sẽ là những bài học marketing đáng để bạn quan tâm và suy nghĩ áp dụng vào công việc kinh doanh của mình.
1. Sở hữu thương hiệu mạnh thì có thể bán được mọi thứ
Pokemon Go – một cái tên Pokemon đã có mặt cách đây 20 năm và chiếm trọn trái tim của hàng triệu game thủ.
2. Thời điểm là quan trọng
Xuất hiên ngay đầu mùa hè Pokemon Go đã làm mưa làm gió và đến giữa mùa hè 06/07/2016 thì các store đón nhận mạnh mẽ. Mùa hè là thời điểm học sinh ở các trường học tiểu học, trung học và đại học, đều đã được thư giản sau một năm học bận rộn, thời gian nầy ai cũng muốn tìm kiếm cho mình một hoạt động khám phá khỏi môi trường học tập và đi ra khỏi nhà, hoặc đi ra ngoài , tìm môi trường tự nhiên.
3. Hiệu ứng đám đông
Pokémon Go là bậc thầy khai thác và điều khiển đám đông tuyệt vời, cực kỳ đáng nể.
4. Khách hàng trung thành, khách hàng trọn đời
Đây là bài học chăm sóc khách hàng trong kinh doanh mà các doanh nhân đừng bao giờ quên.
5. Tiếp thị truyền miệng
Giống như Apple, tiếp thị truyền miêng đã biến khách hàng trở thành người bán hàng.
6. Dễ sử dụng
Quá nhiều chi tiết, quá nhiều bước để sử dụng sản phẩm thì không gì sai lầm hơn trong thiết kế sản phẩm.
Theo pipeline
- Details
- Category: Chiến Lược
- Hits: 5459

Các công ty quảng cáo trực tuyến bắt đầu sử dụng công nghệ ảnh chuyển động (cinemagraph). Kể từ khi xuất hiện lần đầu do nhà thiết kế hình ảnh Kevin Burg và nhiếp ảnh gia Jamie Beck đặt tên, thuật ngữ "cinemagraph" ngày càng trở nên phổ biến. Về mặt kĩ thuật "cinemagraph" chỉ là một file ảnh dưới dạng gif, giống như một đoạn video ngắn được bật đi bật lại.
Sáng tạo của "cinemagraph" là phần lớn của bức ảnh là ảnh tĩnh và chỉ một phần nhỏ chuyển động khiến cho bức ảnh có chất lượng cao. "Cinemagraph" thường được dùng cho các trang chia sẻ trực tuyến như Twitter hay Tumblr bởi người dùng các trang đó thường muốn chia sẻ những bức ảnh đẹp.
Mới đây, trang chia sẻ Tumblr đã tung ra dịch vụ Tumblr Radar, được thiết kế để các công ty hay cá nhân có thể quảng cáo những "cinemagraph" với thương hiệu riêng của mình.
Những hình ảnh quảng cáo động đẹp mắt
Busweiser - một trong những thương hiệu bia lớn nhất của Mỹ, luôn biết cách chạm tới trái tim khách hàng trong các quảng cáo của mình.
Coca-Cola - Là một trong những thương hiệu giá trị nhất trên toàn cầu, Coca-Cola thường xuyên tung ra những chiến dịch quảng cáo sáng tạo, bắt nhịp ...
Gilt Taste - Bức ảnh này nằm trong một loạt cinemagraph được thiết kế cho Gilt Taste, một tạp chí chuyên về ẩm thực.
Christian Louboutin - Nổi tiếng với những bức ảnh về thời trang, Beck và Burg đã dùng công nghệ cinemagraph trong một chiến dịch quảng cáo cho Christian Louboutin.
Tiffany & Co - Được tạo nên bởi Beck và Burg, bức cinemagraph này là một phần trong chiến dịch quảng cáo cho bộ sưu tập Tiffany & Co và đã được trưng bày tại cửa hàng của hãng tại Fifth Avenue.
*Sưu tầm*
- Details
- Category: Truyền Thông Digital
- Hits: 3183

Vai trò thống trị của Amazon trong điện toán đám mây là không thể phủ nhận. Song, những con số ấn tượng về Office 365 cùng với bất ngờ của Oracle trong thời gian gần đây là dấu hiệu cho thấy Amazon không thể quá tự tin vào những gì mình đang có.
Amazon đã, đang và sẽ là ông vua của đám mây trong vòng nhiều năm sắp tới. Theo báo cáo gần đây nhất của Channel e2e, thị phần đám mây của Amazon là 40%, nhiều hơn cả 3 tên tuổi lớn tiếp theo cộng lại. Cuộc đua đám mây hiện tại về bản chất vẫn là cuộc chiến của riêng Amazon và Microsoft khi chỉ có 2 gã khổng lồ này là có thể công bố những con số tỷ đô ấn tượng. Những gã lớn khác, từ IBM, Oracle cho đến Google, vẫn chỉ là "mắt muỗi" so với Amazon và Microsoft.
Nhưng một loạt những diễn tiến gần đây cho thấy chiến lược đám mây đã thành công trong suốt 10 năm qua của Amazon lại đang có vấn đề.
Khởi đầu đầy đau khổ
Nguồn gốc của AWS nằm ở những vấn đề mà bất cứ một công ty nào cũng có thể gặp phải khi xây dựng hệ thống IT của riêng mình. Khi cơn bão dotcom qua đi và Amazon trở lại với nhịp tăng trưởng khổng lồ, hạ tầng IT của trang bán hàng này ngay lập tức rơi vào tình trạng "hụt hơi". Đi kèm với lượng người dùng liên tục bùng nổ là danh mục sản phẩm ngày một rối rắm và các phép tính phức tạp để cải thiện trải nghiệm (thông số so sánh, review, thuật toán gợi ý...). Đầu thập niên 2000, Amazon liên tục gặp tình trạng quá tải gây gián đoạn đến doanh thu và hình ảnh trong mắt công chúng.
Vấn đề này buộc Benjamin Black và Chris Pinkham (tác giả của bản dự thảo ý tưởng AWS) phải tìm cách tái cơ cấu hạ tầng IT của Amazon. Để có thể mở rộng quy mô kinh doanh và chiều sâu trải nghiệm người dùng cuối, Amazon phải tìm được cách chuyên biệt hóa từng phần của hệ thống thông tin: sức mạnh tính toán phải được tách rời khỏi hệ điều hành và middleware; hệ điều hành và middleware cần phải được tách khỏi các tầng code xử lý nghiệp vụ kinh doanh. Mỗi "tầng" của hệ thống cần được chuẩn hóa để những người làm việc trên "tầng" khác có thể chú tâm làm việc một cách dễ dàng.
Khi đã giải được bài toán này, các nhà lãnh đạo của Amazon bỗng dưng sở hữu một tài sản vô cùng quý giá: một lượng data center khổng lồ với các "dịch vụ" lưu trữ, cơ sở dữ liệu, sức mạnh tính toán được cung cấp thông qua các API và các tài liệu chuẩn mực. Mở các dịch vụ chuẩn mực này ra bên ngoài là bước tiến hoàn toàn tự nhiên để biến nền tảng của Amazon thành nền móng của Internet.
Bộ giáp không đầy đủ
Khởi đầu của AWS chính là lý do vì sao đám mây này thành công tới vậy. Trước khi điện toán đám mây trở nên phổ biến, các doanh nghiệp luôn phải đau đầu với bài toán scalability: làm thế nào để hạ tầng IT có thể mở rộng/thu hẹp một cách dễ dàng, tiết kiệm chi phí và ít ảnh hưởng tới các hoạt động kinh doanh cốt lõi nhất? Với AWS - kẻ dẫn đầu trước Microsoft hẳn 2 năm - Amazon đã biến bài toán ấy trở nên đơn giản hơn rất nhiều.
Song, chính vì sinh ra từ vấn đề hạ tầng mà AWS lại tồn tại một kẽ hở quan trọng: SaaS (cung cấp trọn vẹn dịch vụ phần mềm từ đám mây). Khác với Microsoft, IBM hay Oracle, Amazon không phải là gã khổng lồ có thế mạnh trên lĩnh vực giải pháp phần mềm dành cho doanh nghiệp. Công ty của Jeff Bezos đơn giản là chỉ bán sức mạnh tính toán và không hề có các ứng dụng giống như Office của Microsoft hay Siebel của Oracle để đưa lên mây và bán tới khách hàng.
Điểm yếu này đang trở thành những kẽ hở ngày một trầm trọng trong bộ giáp của Amazon. Tháng 4/2017, CEO Satya Nadella của Microsoft tuyên bố lượng người dùng Office 365 đã đạt tới 100 triệu. Ngay từ năm ngoái, Microsoft cũng đã vượt mặt SAP và Salesforce để trở thành ông hoàng trên lĩnh vực "ứng dụng đám mây", hay còn gọi là "SaaS".
Trong lĩnh vực mà đối thủ lớn nhất đang bành trướng, Amazon hoàn toàn vắng bóng.
Gần đây, doanh thu SaaS của Oracle trong quý tài chính mới nhất cũng đạt mức tăng trưởng 75% và lần đầu tiên cán mốc 1 tỷ USD. Trên đám mây, công ty của Larry Ellison cung cấp vô số các công cụ tối cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp, từ phần mềm ERP, phần mềm nhân sự cho tới chăm sóc khách hàng.
Điều này có nghĩa rằng, ứng dụng doanh nghiệp của Oracle, vốn trước đây có thể triển khai lên PaaS hay IaaS của Amazon, nay lại được Oracle cung cấp đầy đủ dưới sạng ứng dụng đám mây. Bằng cách tấn công vào "tầng" cao hơn, gần với người dùng hơn (ứng dụng) thay vì cố đấm ăn xôi vào "sân nhà" hạ tầng của Amazon, Oracle đã tìm ra cách để loại bỏ AWS khỏi mối làm ăn của mình với khách hàng doanh nghiệp.
Đánh trả mạnh mẽ
Dĩ nhiên, một kẽ hở không có nghĩa rằng Microsoft, IBM hay Oracle có thể dễ dàng lật đổ Amazon trong ngày một ngày hai. Trong tương lai gần, phần đông các doanh nghiệp có lẽ vẫn sẽ lựa chọn cách di chuyển middleware và/hoặc hạ tầng phần cứng của mình lên đám mây, bởi đây là cách tiết kiệm chi phí nhất và quan trọng hơn ít gây thay đổi đối tới người dùng cuối nhất. Các công nghệ phần mềm nhưMicrosoft Exchange, IBM Domino hoặc Oracle vẫn đang tương thích khá tốt với các đám mây IaaS/PaaS thông thường. Với người dùng cuối vốn chỉ tiếp xúc với giao diện phần mềm mà không cần biết máy móc đang đặt ở đâu, thay đổi từ triển khai nội bộ lên triển khai đám mây vẫn là một hướng ít "động chạm" đến cách làm việc, quyền lợi và thu nhập nhất.
Dĩ nhiên, không phải lo lắng không có nghĩa rằng Amazon nên đứng yên. Sự phổ biến ngày càng sâu rộng của Office 365 hoặc các công cụ như Slack, Facebook at Work cho thấy người dùng doanh nghiệp đang ngày một cởi mở hơn với các thay đổi do "phần mềm trên mây" mang lại. Khi không khí làm việc trên toàn cầu đang đi dần theo hướng "nghĩ nhanh, thay đổi nhanh" để chống chọi lại với những cuộc cách mạng chóng mặt do startup khởi xướng, thay đổi từ phần mềm on-premises thành SaaS cũng sẽ không còn gặp quá nhiều sự chống đối nữa.
Vậy, Jeff Bezos và Andy Jassy đang có những động thái nào để đánh trả? Mới gần đây, Amazon đã bất ngờ khởi kiện Smartsheet sau khi công ty này thâu tóm được một phó chủ tịch đám mây của Amazon. Bước đi này được các nhà bình luận Phố Wall coi là dấu hiệu Amazon đang tìm cách ra mắt các bộ phần mềm quản lý công việc/làm việc nhóm tương tự như Smartsheet (và Slack, Microsoft Teams...), song điều ít ai nhận ra là công ty của Jeff Bezos đã bộc lộ tham vọng SaaS kể từ đầu 2017 qua các công nghệ như Lex hay Chime.
Không dừng lại ở đây, Amazon cũng có đầy đủ tiền bạc để thâu tóm các thế lực phần mềm doanh nghiệp như Atlassian hoặc Slack. Câu hỏi lớn nhất sẽ là, liệu Jeff Bezos và đồng sự có thực sự coi trọng mối đe dọa đang ngày một lớn dần đến từ Microsoft, IBM và Oracle?
LÊ HOÀNG/Trí Thức Trẻ
- Details
- Category: Chiến Lược
- Hits: 3597

Một câu mà người ta hay nói là ban quản trị một công ty càng độc lập thì càng tốt. Sự hiện diện của bất kỳ nhà điều hành nào, có lẽ ngoại trừ CEO của doanh nghiệp đó, có thể chỉ mang lại rắc rối mà thôi.
Nhưng nghiên cứu chứng minh ban quản trị quá độc lập mới là rắc rối thực sự. Bởi lẽ, nó dẫn đến những hệ quả như lợi nhuận thấp hơn, mức lương trả cho CEO quá cao và gian lận tài chính nhiều hơn.
Chắc chắn kết quả này sẽ khiến cho nhiều người ngạc nhiên, bởi cơ chế ban quản trị chỉ có 1 thành viên nội bộ duy nhất là CEO đang ngày càng trở nên phổ biến. Trên thực tế, việc CEO là thành viên nội bộ duy nhất trong hội đồng quản trị xuất hiện ở hơn phân nửa các công ty thuộc S&P 1500.
Hội đồng quản trị ngày trước có nhiều khác biệt. Trước khi xảy ra các vụ bê bối kế toán vào đầu thập niên 2000, thành viên hội đồng quản trị ở nhiều công ty chủ yếu là người nội bộ. Thông thường hệ quả của cơ chế này là một hệ thống gian lận, méo mó bởi cho CEO quá nhiều sức ảnh hưởng và kiềm hãm khả năng của ban quản trị trong việc giám sát hành vi của CEO cũng như hành vi của các nhà điều hành khác.
Sau sự sụp đổ của các tập đoàn như Enron và MCI WorldCom, các sàn giao dịch chứng khoán NYSE và Nasdaq đã áp dụng các quy định bắt buộc doanh nghiệp phải có số lượng lớn các thành viên quản trị độc lập nằm trong ban quản trị. Động thái này rõ ràng đã gia tăng năng lực quản trị doanh nghiệp ở nhiều công ty.
Mặc dù hướng tới tính độc lập cao hơn ở ban quản trị là một tiến bộ quan trọng, nhưng việc loại tất cả người nội bộ chỉ ngoại trừ CEO đã đưa tính độc lập của ban quản trị lên một mức độ có thể xem là cực đoan, xét theo tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp tốt. Đó là bởi vì có thêm 1 hoặc 2 nhà điều hành nội bộ nằm trong ban quản trị đem đến 2 lợi ích rất quan trọng.
Thứ nhất, các thành viên nội bộ khác cung cấp những thông tin có ích. Công việc của CEO rất phức tạp và những thành viên quản trị ở bên ngoài phần lớn sẽ không nắm rõ được hết công việc của CEO. Trong khi đó, các thành viên nội bộ can thiệp vào các hoạt động điều hành hằng ngày và trực tiếp giám sát hành vi của CEO, nên họ có thể cung cấp những thông tin chi tiết và tình hình cụ thể mà các thành viên quản trị độc lập sẽ không thấy được.
Khi không có các thành viên nội bộ khác, CEO sẽ dễ đổ lỗi trách nhiệm hơn nếu hoạt động kinh doanh đi xuống hoặc nhận công lao về mình nhiều hơn so với thực tế, nếu tình hình kinh doanh tốt hơn dự kiến. Ngược lại, sự có mặt của các thành viên nội bộ khác, vốn biết rõ tường tận tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, có thể giúp các thành viên quản trị độc lập nắm bắt và đánh giá tốt hơn kết quả làm việc của CEO và đưa ra mức lương thưởng phù hợp cho CEO.
Lợi ích thứ hai của việc sắp xếp các nhà điều hành chủ chốt khác ngồi trong ban quản trị là giúp hạn chế các rủi ro liên quan đến vấn đề kế vị CEO. Bởi lẽ, việc biết rằng còn có các ứng viên nội bộ đủ năng lực sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thách thức quyền lực của vị CEO đương nhiệm. Khi có nhu cầu phải thay CEO, ban quản trị vẫn có thể tìm kiếm các ứng viên bên ngoài, nhưng ít nhất sức mạnh của nhóm các nhà điều hành hiện hữu là có thể thấy được.
Xét 2 lợi ích trên của các thành viên nội bộ, theo một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Central Florida, Đại học Auburn, Đại học bang Arizona và Đại học Wright State, việc chuyển sang cơ chế ban quản trị độc lập có thể hơi “quá khích”.
Trong một bài nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Quản trị chiến lược, nhóm nhà nghiên cứu này đã sử dụng dữ liệu của các doanh nghiệp thuộc S&P 1500 trong giai đoạn 2003-2014 để phân tích hệ quả của những hội đồng quản trị chỉ có 1 thành viên nội bộ. Họ phát hiện ở những công ty mà ban quản trị chỉ có 1 thành viên nội bộ lại trả lương cho các CEO rất cao, vượt quá năng lực CEO xứng đáng có.
Tính trung bình, các CEO này nhận mức lương hằng năm cao hơn xấp xỉ 81% so với những CEO khác. Con số lương thưởng tặng thêm là 4,6 triệu USD mỗi năm. Số tiền này đáng lẽ có thể được giữ lại để tài trợ vốn cho các chiến lược tăng trưởng của doanh nghiệp hoặc trả lại cho cổ đông dưới dạng chia cổ tức.
Lương thưởng CEO ở các ban quản trị chỉ có 1 thành viên nội bộ cũng không tương xứng với mức lương của các nhà điều hành khác. Trong nghiên cứu nói trên, một CEO trung bình kiếm được cao hơn 4,4 triệu USD mỗi năm so với mức trung bình của top 4 nhà điều hành được trả cao nhất chỉ sau CEO trong công ty. Tuy nhiên, đối với những CEO là thành viên duy nhất trong ban quản trị, mức chênh lệch này được cộng thêm 2,99 triệu USD nữa, nghĩa là họ kiếm được cao hơn 7,39 triệu USD so với mức trung bình của top các nhà điều hành khác trong doanh nghiệp.
Quan trọng hơn, nghiên cứu cho thấy ở các doanh nghiệp chỉ có 1 thành viên nội bộ trong ban quản trị thì xác suất sai phạm tài chính cao hơn tới 27% và lợi nhuận của các công ty này cũng thấp hơn xấp xỉ 10% so với mức trung bình.
Giải pháp để tiêu trừ những hệ quả khó lường của cơ chế ban quản trị chỉ 1 thành viên nội bộ là mời thêm 1 hoặc 2 nhà điều hành chủ chốt cùng ngồi vào ban quản trị. Dĩ nhiên, mỗi công ty có những nhu cầu quản trị riêng, nhưng nghiên cứu cho thấy các công ty có 2 hoặc 3 người là thành viên nội bộ không gặp phải vấn đề lương thưởng quá cao hoặc kinh doanh thiếu hiệu quả như xảy ra ở các doanh nghiệp có ban quản trị chỉ 1 thành viên nội bộ.
Vậy nên đưa nhà điều hành nội bộ nào vào ban quản trị? Các doanh nghiệp thường đưa giám đốc tài chính ngồi vào ban quản trị nếu họ muốn có thêm thành viên quản trị nội bộ ngoài CEO.
Nhưng không nhất thiết phải như vậy. Thay vào đó, theo các nhà nghiên cứu, hội đồng quản trị nên tập trung vào đặc điểm cá nhân của nhà điều hành hơn là vào chức vụ của nhà điều hành đó.
Một nhà điều hành biết hỏi các câu hỏi hóc búa, coi trọng tính thẳng thắn, bộc trực, chí công vô tư và có tiềm năng trở thành CEO trong tương lai sẽ là một lựa chọn khôn ngoan, mặc cho chức vụ hiện tại của người đó là gì đi nữa.
NGÔ NGỌC CHÂU (theo WSJ)/NCĐT
- Details
- Category: Quản Trị Marketing
- Hits: 3342

Một thông điệp marketing nên dành 80% nội dung cho mục đích giải trí, 20% nói về thương hiệu phục vụ cho việc bán hàng.
Marketing lan truyền là phương pháp marketing tập trung vào việc tạo ra nội dung có khả năng lan truyền theo cấp số nhân bằng cách thu hút nhiều người chia sẻ và lan tỏa nội dung đó ra cộng đồng. Theo ThS. Thái Phúc Gia Hưng - nhà sáng lập Cộng đồng Marketing lan truyền Việt Nam ViralContentsAZ, điều cốt yếu của marketing lan truyền là tạo cảm hứng để mọi người chuyền nhau thông điệp của sản phẩm, dịch vụ.
"Ước tính, một chiến dịch marketing lan truyền thành công có thể có hiệu quả gấp 500 - 1.000 lần so với chiến dịch không dùng phương thức lan truyền", ông Hưng chia sẻ tại Hội thảo Hiểu đúng về marketing lan truyền và thực tế áp dụng tại Việt Nam.
Tập trung vào khách hàng mục tiêu
So với phương pháp marketing truyền thống, marketing lan truyền có ưu điểm dễ tiếp cận nhiều người hơn nhờ vào nội dung thông minh, có sức thu hút. Hình thức lan truyền có thể đến từ các video clip, game flash tương tác, game quảng cáo (advergame), ebook, phần mềm tùy biến thương hiệu (brandable software), hình ảnh, tin nhắn văn bản, email, website, các sự kiện hoặc cuộc thi gây chú ý.
Một chiến dịch marketing lan truyền được xem là thành công khi tạo cho người xem cảm giác thích thú mà thông điệp đưa ra và sau đó lan truyền chúng một cách vô thức thông qua việc gửi đường dẫn, đăng blog...
"Người xem có thể khen, chê, hưởng ứng hoặc phẫn nộ với thông điệp. Điều quan trọng là chúng phải tiếp cận được càng nhiều người càng tốt, nhờ đó mức độ nhận biết thương hiệu của khách hàng càng được gia tăng", ông Hưng chia sẻ.
Tuy nhiên, chính vì phát triển mạnh mẽ mà loại hình marketing này cũng xuất hiện những "biến tướng", trong đó phải kể đến những nội dung phản cảm, làm méo mó hình ảnh thương hiệu. ThS. Phí Văn Anh - giảng viên bộ môn marketing, Trường Đại học FPT Polytechnic phân tích, suy cho cùng, marketing lan truyền cũng chỉ là công cụ để truyền thông cho sản phẩm, dịch vụ.
Và nhiệm vụ của người làm marketing là truyền thông đúng với cam kết thương hiệu. "Người tiêu dùng rất thông minh. Bạn có thể dùng "chiêu trò” marketing để thu hút khách hàng trong thời gian đầu, nhưng một khi phát hiện ra nội dung quảng cáo sai sự thật, họ sẽ quay lưng với sản phẩm của bạn ngay", ông Anh khuyến cáo. Chưa kể, những nội dung quảng cáo có tính dễ dãi thường chỉ thu hút sự tò mò của những người xem nhỏ tuổi và ít nhận được sự quan tâm từ khách hàng mục tiêu.
Việc xuất hiện những "biến tướng" trên cũng cho thấy có không ít doanh nghiệp hiện nay chưa hiểu đúng về hình thức marketing này. Dù việc đưa ra nội dung gây sốc, phản cảm dễ thu hút sự chú ý của cộng đồng nhưng "nó giống như mì ăn liền, ăn riết đâm ra ngán, và cũng chỉ thoảng qua trong khoảng thời gian ngắn", ông Anh ví von. Do đó, để lan truyền thông điệp hiệu quả, hình thức marketing được sử dụng cần nhất quán với sản phẩm. "Ban đầu, chúng có thể hơi "lép vế” so với những cách làm biến tướng kia, nhưng về lâu dài sẽ đi vào trái tim của người tiêu dùng và dễ dàng thuyết phục được họ”, ông Anh nói.
Hiện có 5 hình thức lan truyền được sử dụng phổ biến, gồm: chuyển tiếp (tin nhắn chuyển cho nhau thường đặt cuối email), tin đồn truyền miệng (người nổi tiếng nói về sản phẩm, dịch vụ thường với mục đích cố ý gây tranh cãi), lan truyền có thưởng (kêu gọi cộng đồng chia sẻ để nhận thưởng), quảng cáo bất ngờ (người xem bất ngờ vì nội dung quảng cáo), lan truyền tự phát (người dùng tự kêu gọi nhau tham gia trào lưu, tuyên truyền).
Nguyên lý 80/20
Người làm marketing giỏi luôn nắm được tâm lý của khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng, từ đó đưa ra thông điệp thích hợp. Theo ông Hưng, một trong những phương pháp marketing dễ tiếp cận khách hàng Việt Nam nhất hiện nay là cung cấp những giá trị hữu ích và ưu tiên giải quyết vấn đề của họ.
Bên cạnh đó, người Việt Nam vốn có nhu cầu giải trí khá cao, do đó doanh nghiệp nên đáp ứng nhu cầu giải trí của khách hàng, sau đó mới tìm cách giải quyết vấn đề của họ và bán sản phẩm. "Một thông điệp marketing nên dành 80% nội dung phục vụ cho mục đích giải trí, 20% còn lại nói về thương hiệu phục vụ cho việc bán hàng", ông Hưng nói.
Đồng quan điểm và minh họa cho điều này, ông Anh cho biết, hiện có không ít nhãn hàng, thương hiệu "ẩn nấp" trong lời bài hát, giai điệu có sức lan tỏa mạnh.
Đơn cử, thương hiệu Bitis đã khéo léo lồng vào video clip Lạc trôi hình ảnh đôi giày Bitis Hunters, đồng thời cố tình tua nhanh khung ảnh ca sĩ Sơn Tùng mang đôi giày đó. Lẽ dĩ nhiên, điều này không qua mắt được người hâm mộ.
"Đây là một dạng marketing lan truyền mà Bitis đã thực hiện thành công khi đưa hình ảnh sản phẩm vào nội dung giải trí và cố tình "úp mở" tên thương hiệu khiến người xem tò mò, từ đó sớm tạo ra làn sóng lan truyền", ông Anh nhận định.
Tuy nhiên, âm nhạc chỉ là một trong 6 yếu tố nâng đỡ giúp tăng tính hấp dẫn cho nội dung lan truyền. Việc tránh đề cập thương hiệu cũng là một cách làm "khôn ngoan" giúp khách hàng không thấy chán ghét hoặc thẳng tay chặn quảng cáo. Ngoài ra, hình thức tạo ra những thử thách (xối nước đá, ăn mì cay, hít đất 22 cái...) cũng tạo nên sự lan truyền tự phát mạnh mẽ.
Việt Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất khu vực Đông Nam Á với tổng số người sử dụng internet ước tính gần 50 triệu người. Đây là một trong những thuận lợi cho việc phát triển lĩnh vực marketing kỹ thuật số thông qua nội dung, nhưng cũng là thách thức đối với người làm marketing lan truyền. Do vậy, doanh nghiệp cần chú trọng truyền tải những thông điệp có ý nghĩa, đồng thời phục vụ nhu cầu giải trí của người xem, nhưng quan trọng nhất vẫn là tạo ra sản phẩm đủ tốt.
VÂN THẢO
- Details
- Category: Lý Thuyết Marketing
- Hits: 4277

Từ tháng 8/2017, hoạt động quản trị của các công ty đại chúng sẽ phải tuân theo Nghị định 71.
Trong đó, nhà đầu tư đặc biệt chú ý đến yêu cầu doanh nghiệp phải tách bạch vị trí chủ tịch và tổng giám đốc cũng như quy định chi tiết hơn về số lượng thành viên hội đồng quản trị.
Cụ thể, số lượng thành viên hội đồng quản trị phải tối thiểu 3 người và không được quá 11 người. Nếu là doanh nghiệp niêm yết, cơ cấu hội đồng quản trị phải đảm bảo 1/3 người trong ban quản trị là thành viên độc lập. Còn ở công ty đại chúng, con số này là 1/5.
Nếu như các doanh nghiệp có thời gian 2 năm cho lộ trình tách bạch chức vụ chủ tịch/tổng giám đốc thì quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập bị buộc áp dụng ngay trong tháng 8 này. Khảo sát sơ lược từ người viết cho thấy, tất cả các doanh nghiệp khi được hỏi về yêu cầu này đều khẳng định “khó thực hiện”.
Ai sẽ nhường ghế?
Bà Nguyễn Thị Thuận - Chủ tịch Traphaco, đã đặt ra câu hỏi này khi nói về những trở ngại trong việc tìm thành viên hội đồng quản trị độc lập.
Traphaco hiện có 7 thành viên hội đồng quản trị nhưng mới chỉ có 1 người là tham gia với tư cách độc lập, tức không phải là cổ đông lớn (nắm giữ trên 5% vốn điều lệ) cũng như không tham gia vào việc điều hành tại Công ty.
“Đây là ghế do phía cổ đông lớn Mekong Capital nhường. Họ là quỹ đầu tư nước ngoài, họ hiểu công ty cần thành viên quản trị độc lập và sẵn sàng nhường 1 suất cho người bên ngoài. Nhưng với các cổ đông lớn khác thì sao? Sẽ rất khó để thuyết phục họ nhường”, bà Thuận cho biết.
Thực tế, việc bầu thành viên hội đồng quản trị là dựa trên nguyên tắc đối vốn. Theo quy định, chỉ các nhóm cổ đông lớn, nắm giữ từ 10% vốn điều lệ trở lên mới có quyền đề cử người vào thành viên ban quản trị, làm đại diện cho họ.
Nhưng đó mới chỉ là quyền giới thiệu, còn người được đề cử ấy có trúng cử vào hội đồng quản trị được hay không lại tùy vào số phiếu của đa số cổ đông. Làm sao để cổ đông đồng tình chấp thuận cho một người xa lạ, không thuộc nhóm cổ đông lớn nào ngồi vào vị trí thuộc ban quản trị là cả một vấn đề nan giải.
Đây chính là gút mắc mà Garmex Sài Gòn (GMC) từng gặp phải. Năm 2014, ông Lê Quang Hùng - Chủ tịch GMC đã rất mong muốn có thành viên quản trị độc lập trong Công ty.
Tuy nhiên, bản thân ông Hùng lại không sở hữu đủ số lượng cổ phiếu để có quyền đề cử ai. Các nhóm cổ đông khác tuy đủ khả năng nhưng lại không muốn giới thiệu người không liên quan tới quyền lợi của họ.
Ông Lê Quang Hùng cảm thấy bế tắc, từng gửi thư lên cơ quan thẩm quyền để nêu vấn đề tồn tại và hy vọng có hướng giải quyết. Nhưng chuyện vẫn không đến đâu.
Kết quả là GMC hiện có 3 thành viên quản trị không tham gia điều hành, nhưng họ đều nắm giữ từ 10-20% vốn điều lệ ở GMC. Theo đúng định nghĩa, GMC vẫn chưa có thành viên hội đồng quản trị độc lập.
“Tôi và Công ty rất ủng hộ việc có thành viên quản trị độc lập nhưng rõ ràng bị bí trong việc triển khai”.
Tìm người ở đâu?
Đối với Coteccons, cái khó của việc tìm thành viên hội đồng quản trị độc lập nằm ở khía cạnh khác. Nó liên quan đến câu hỏi: Tìm người ở đâu?
Đại diện Coteccons đã trăn trở rằng không dễ dàng gì tìm ra người vừa độc lập, không liên quan gì đến quyền lợi ở doanh nghiệp vừa đủ tư cách và năng lực để có thể hỗ trợ tích cực đến doanh nghiệp trong cương vị thành viên quản trị độc lập.
Những năm qua, Coteccons cũng chỉ tìm được 2 người cho vị trí này. Coteccons sẽ còn phải tiếp tục tìm kiếm bởi có thể từ năm 2018, hướng tổ chức Hội đồng Quản trị của Coteccons sẽ học theo Vinamilk, tức sẽ nâng số lượng thành viên ban quản trị từ 7 người hiện nay lên 9 người, với 1/3 người là thành viên độc lập, phụ trách từng tiểu ban (nhân sự, lương thưởng, kiểm toán).
Trên thực tế, khi nhìn vào diện mạo những người đang giữ vị trí thành viên hội đồng quản trị độc lập, mới thấy cái khó của doanh nghiệp trong việc tìm người. Traphaco đã nhờ có Mekong Capital “mai mối” mới mời được ông Marcus John Pitt vào vị trí thành viên độc lập.
Đây là nhân vật hoàn toàn trung lập, không hoạt động gì liên quan đến ngành dược, nhưng lại có gần 20 năm kinh nghiệm quản trị, điều hành, nắm giữ những vị trí quan trọng tại các công ty nước ngoài nên vẫn có thể hỗ trợ cho Traphaco.
Đối với Vinamilk, sự hiện diện của ông Nguyễn Bá Dương - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Coteccons trong vai trò thành viên quản trị độc lập, cũng được ban quản trị Vinamilk cân nhắc kỹ lưỡng.
Bà Mai Kiều Liên - Tổng Giám đốc Vinamilk chia sẻ trong Đại hội cổ đông rằng, ông Dương có nhiều kinh nghiệm trong quản lý. Còn bà Lê Thị Băng Tâm - Chủ tịch Vinamilk thì nhận định, ông Dương là một trong 10 nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam. Vinamilk mời được ông Dương về thì sẽ giúp ích cho hoạt động điều hành, quản trị của Công ty.
Nhưng theo chia sẻ của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở Việt Nam, những người đủ uy tín và sức ảnh hưởng để ngồi vào ghế thành viên quản trị độc lập mà không bị cổ đông phản bác như ông Nguyễn Bá Dương là không nhiều.
Thông thường, các chuyên gia, các CEO sẽ phù hợp với vai trò này hơn. Nhưng đại diện một doanh nghiệp cho biết, dù gì thì các công ty cũng cảm thấy lo âu nếu ban quản trị có người ngoài ngành, ngoài công ty, người mà họ chưa nắm rõ, chưa biết tính cách, tâm ý thế nào.
Ở phương diện nào đó, hội đồng quản trị doanh nghiệp có lý do để dè dặt với người bên ngoài.
Ai sẵn sàng tham gia?
Không chỉ phía doanh nghiệp mà chính bản thân những người được tiến cử cho vị trí thành viên quản trị độc lập cũng có những băn khoăn nhất định.
Ông Nguyễn Bá Dương đã tìm thấy nhiều lý do phù hợp mới quyết định nhận lời ngồi ghế thành viên quản trị độc lập ở Vinamilk. Thứ nhất, như ông từng chia sẻ dù bận rộn nhưng ông không thể từ chối lời mời của Vinamilk do Vinamilk là một trong những công ty hàng đầu Việt Nam.
Thứ hai, ông Dương nhận thấy, hoạt động quản trị ở Vinamilk đã phát triển ở cấp cao hơn so với mặt bằng chung của doanh nghiệp. Tham gia vào ban quản trị của Vinamilk sẽ giúp cá nhân ông Dương học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trong bối cảnh Coteccons cũng đang nghiên cứu để tiến tới triển khai mô hình quản trị tương tự như Vinamilk.
Từ mối lương duyên giữa ông Nguyễn Bá Dương và Vinamilk, có thể thấy để mời được người đáng tín nhiệm, có tài trí về đóng góp trong ban quản trị đòi hỏi bản thân công ty đó phải đạt tầm vóc đủ lớn, đủ sức hấp dẫn. Ngoài ra, những mối kết hợp ăn ý thường chỉ diễn ra khi các bên biết được cá tính, tư duy, cách làm việc của nhau.
Đây là những yêu cầu không dễ đáp ứng với nhiều doanh nghiệp. Còn dưới góc độ thu nhập, bà Nguyễn Thị Thuận đánh giá, thù lao cho hội đồng quản trị chưa hấp dẫn.
Hiện tại, theo tờ trình của một số doanh nghiệp, thù lao cho thành viên hội đồng quản trị thường từ 400-600 triệu đồng/năm, một mức mà theo bà Thuận là chưa tương xứng với những áp lực, trách nhiệm mà thành viên quản trị độc lập gặp phải khi ngồi vào chiếc ghế này.
“Các doanh nghiệp cần trả lương, cần đưa ra mức thu nhập tối thiểu cùng các quyền lợi khác để thu hút người giỏi từ bên ngoài sẵn sàng tham gia vào ban quản trị công ty”, bà Thuận nhấn mạnh.
Nhưng trên hết, doanh nghiệp cần tạo lộ trình cho việc tìm kiếm thành viên quản trị độc lập. Trước mắt, với những vướng mắc kể trên, theo các doanh nghiệp, quy định về thành viên quản trị độc lập chỉ nên khuyến khích chứ chưa nên bắt buộc.
Ngọc Thủy/NCĐT
- Details
- Category: Quản Trị Marketing
- Hits: 2544

Dường như hình bóng của “Tỷ phú giàu thứ 2 thế giới” vẫn còn khá mờ nhạt trong “giới” từ thiện. Nhưng điều đó đã thay đổi mạnh mẽ vào tuần trước, chỉ với 1 bài tweet của ông - hiện được theo dõi với hơn 2000 người và con số này vẫn đang tăng với một tốc độ chóng mặt.
Jeff Bezos - CEO của công ty Amazon đã đăng một câu hỏi: “ông có thể sử dụng sự giàu có của mình để làm từ thiện như thế nào?” - câu hỏi đã tạo nên một làn sóng ý tưởng mạnh mẽ từ khắp mọi ngóc ngách trên thế giới. Chúng bao gồm những ý kiến về việc hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, giáo dục,... Thậm chí Madonna cũng lên tiếng mời ông đến thăm Detroit và tham gia các hoạt động từ thiện ở đó.
“Tôi viết tweet này với mong muốn tìm kiếm ý tưởng mới. Tôi đang nghĩ đến một chiến dịch từ thiện mà nó khá đi ngược lại với cách làm việc của tôi - làm những việc có kế hoạch trong dài hạn. Về mảng từ thiện, tôi nghĩ hướng đi của mình hiện tại chưa được chính xác. Ví dụ, tôi được truyền rất nhiều cảm hứng từ nhà tình nghĩa Mary’s Place ngay tại Seattle, tôi thích làm những dự án dài hạn xuyên suốt như Blue Origin, Amazon, Wahington Post - tất cả những thứ này đều đóng góp cho xã hội và con người theo cách riêng của chúng. Nhưng hiện tại tôi muốn làm một dự án từ thiện ngắn vừa có thể đáp ứng các nhu cầu cấp thiết, vừa có tác động về lâu về dài. Nếu bạn có một ý tưởng táo bạo, hãy cho tôi biết ngay (nếu bạn nghĩ hướng đi này chưa đúng, tôi rất sẵn lòng được nghe ý kiến từ bạn).
Trân trọng!
Jeff”
Cách trưng cầu ý tưởng này rất độc đáo, nó đã gây nên làn sóng dư luận tại Thung lũng Silicon và nó đã khiến những nhà tư vấn, chuyên gia trong các lĩnh vực đóng góp những ý kiến “triệu đô”. Tìm kiếm ý tưởng trên Twitter cho thấy cách Bezos làm việc giống như một nhà tư bản mạo hiểm. Theo Eileen Heisman, Giám đốc điều hành của the National Philanthropic Trust, một tổ chức từ thiện quản lý 4,2 tỷ USD thay mặt cho các nhà hảo tâm cá nhân, đã lên tiếng với mong muốn tìm kiếm một vài khoản đầu tư xứng đáng.
Chiến lựơc tìm ý tưởng từ cộng đồng mạng đã mở rộng cách tiếp cận tương đối hạn chế của Bezos đối với hoạt động từ thiện. Quỹ Bezos Family, được biết đến nhiều nhất với sự hỗ trợ của chương trình giáo dục trẻ em, phần lớn được tài trợ bởi các bậc phụ huynh từ các kho hàng của Amazon. Bên cạnh đó, gia đình ông Bezos đã ủng hộ từ thiện với tổng số tiền lên tới 100 triệu USD, bao gồm cả những món quà tới Đại học Princeton và Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle.
Theo Stacy Palmer, biên tập của Chronicle of Philanthropy - một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực từ thiện, bà rất tò mò về vấn đề Bezos sẽ làm những gì và làm ra sao. Với những điều ông đã làm với Amazon, bà cũng không ngạc nhiên khi ông không làm từ thiện theo cách truyền thống.
Bezos đã tích lũy 86 tỉ USD khi xây dựng Amazon trở thành nhà bán lẻ trực tuyết lớn nhất thế giới. Chỉ vài tiếng sau khi tweet, Bezos đã thông báo tiếp quản công ty quản lý thực phẩm hữu cơ Whole Foods Market Inc., điều này làm ông rất hăng hái. Hiện nay, ông vẫn chưa đưa ra bất cứ phản hồi nào cho bài đăng trên Twitter, và ông cũng chưa cho biết ông sẽ bắt đầu khi nào và sẽ dành bao nhiêu số tiền để làm từ thiện.
Trong khi có cả một đội quân háo hức giúp ông quyết định trên Twitter, thì một vài đồng nghiệp của ông cũng đưa ra vài ý kiến cảnh báo ông về cách tiếp cận này. Denis O’Brien - một tỉ phú người Ai Len cho rằng cách làm từ thiện tốt nhất là phải xác định mục tiêu trước. Và khi Bezos có một lượng ý kiến đông đảo như vậy, chắc chắn ông sẽ bị quá tải.
Còn ông trùm Facebook Mark Zuckerberg và vợ của anh - Priscilla Chan đã cam kết làm từ thiện 99% trong số 63 tỉ USD cổ phần công ty, và ông chủ Facebook đang cố gắng nỗ lực với một công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này khiến 2 vợ chồng thoải mái hơn so với các tổ chức khác, họ không cần làm từ thiện mỗi năm hay bất kì đóng góp chính trị nào.
Kể cả Bezos có tìm được một ý tưởng tuyệt vời nào đó thì ông vẫn cần một hệ thống và chiến lược phù hợp để ý tưởng đó có thể đem lại nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, phần lớn thời gian ông đã dành cho Amazon, tờ báo Washington Post và tài trợ cho công ty thăm dò không gian Blue Origin LLC.
Mặc dù có vẻ Bezos đang cố gắng tăng tốc một cách nhanh chóng, nhưng ông vẫn cần tìm ra cách riêng của mình để bắt kịp những gã khổng lồ kia.
Trong khi Bill và Melinda Gates đã đóng góp từ thiện hơn 30 tỉ USD từ năm 1994. Còn tỉ phú Buffett thì đã thành lập quỹ từ thiện của riêng mình và đóng góp gần 25 tỉ USD từ năm 2006. Hiện tại Jeff Bezos mới đóng góp từ thiện được khoảng 100 triệu USD, thoạt nhìn thì lớn nhưng so với những gã khổng lồ kia thì vẫn chưa thấm vào đâu.
Theo Trí Thức Trẻ
- Details
- Category: Chiến Lược Thương Hiệu
- Hits: 4162

Hiện nay, cuộc sống bận rộn khiến một bộ phận người thành thị hầu như không còn thời gian để đi chợ và sơ chế thực phẩm. Nhắm vào đối tượng ngày càng nhiều này, một số đơn vị, cá nhân tại TP.HCM đã cung cấp dịch vụ đi chợ online.
Theo đánh giá của người trong nghề, đây là một thị trường tiềm năng, sẽ bùng nổ trong khoảng 5 năm tới.
Tiết kiệm tối đa 2 giờ/ngày
Chị Mi Vân, nhà ở Thủ Đức cho biết, chị làm việc ở quận 1 nên thời gian di chuyển mỗi ngày không kẹt xe cũng mất khoảng 45 phút cho quãng đường 9 – 10km, vì vậy, việc đi chợ, sơ chế thực phẩm cho gia đình 5 người thực sự là một áp lực. Gia đình chị lại ít sử dụng thực phẩm đông đá hay chế biến sẵn để qua ngày vì vậy áp lực đi chợ mỗi ngày càng tăng. Nếu chiều muộn chị ghé chợ rồi về sơ chế, ít nhất cũng mất cả tiếng đồng hồ. Nếu ghé siêu thị thì thời gian có thể sẽ lâu hơn. Theo đó, thời gian gần đây, để đỡ mệt mỏi, chị đã mua thực phẩm tươi sống qua dịch vụ đi chợ qua mạng của 3sachfood, Đi Chợ Nhanh.
Chị Mi Vân cho biết chị thường đặt đồ ăn theo ngày. Theo đó, trước 22h mỗi ngày, chị sẽ tính toán, đặt các loại thực phẩm và hẹn giờ cụ thể để bên cung cấp dịch vụ giao vào ngày hôm sau tại nhà hoặc tại cơ quan. Thực phẩm đã được sơ chế nên khi mang về, chị chỉ việc chế biến. Thời gian chế biến khoảng 30 - 45 phút tùy món chị chọn. Trung bình chi phí một ngày cho gia đình 5 người, gồm 2 người lớn và 2 trẻ em là 350.000 - 400.000đ.
Chị Thu Hồng, nhà ở quận 1 nhưng đi làm ở quận Tân Bình cũng cho biết, khoảng 7 tháng trở lại đây, từ khi bắt đầu đi làm lại sau khi sinh con gái thứ 2 thì chị chuyển sang đi chợ online thay vì đi chợ, siêu thị như trước. Chị thường đặt thực phẩm sử dụng trong 2 - 5 ngày.
Thông thường, sau khi tham khảo, quyết định mua loại thực phẩm nào trên website, chị sẽ nhắn online hoặc nhấn vào phần “giỏ hàng, đặt hàng” trên đó để chọn. Sau khi nhận được tin nhắn mua hàng, nhân viên của đơn vị cung ứng thực phẩm sẽ xác nhận, gửi hóa đơn qua email để chị kiểm tra lại về loại thực phẩm cũng như tổng chi phí phải trả. Sau khi chị xác nhận đồng ý, ghi chú thời gian giao hàng thì bên cung ứng thực phẩm sẽ cứ theo thời gian đó mà vận chuyển thực phẩm tới địa chỉ chị yêu cầu. Các loại thực phẩm theo đó đã được sơ chế, đóng gói, hút chân không.
Ngoài sơ chế, đóng gói theo quy chuẩn được bên cung ứng dịch vụ đưa ra, chị có thể yêu cầu thêm, ví dụ như một con cá chia làm 2 bịch, một con gà chặt và chia thành 4 bữa ăn…
Chị Thu Hồng cho biết, một trong những điểm mà chị hài lòng ở dịch vụ này là có đơn vị còn đưa ra combo thực phẩm theo bữa, theo ngày cho người tiêu dùng. Chị có thể đặt theo combo đó hoặc thay đổi một vài loại thực phẩm. Tổng chi phí thực phẩm trong một tuần cho gia đình 3 người lớn vào khoảng 1 - 1,2 triệu đồng. Tổng chi phí này, nếu so với khi đi chợ/siêu thị tương đương nhau nhưng ưu điểm là tiết kiệm thời gian hơn rất nhiều (có khi lên tới 2 giờ/ngày). Đồng thời tiết kiệm cả tiền xăng xe đi lại.
Thị trường rất tiềm năng
Theo ghi nhận hiện nay, tại TP.HCM có khoảng 10 công ty, cá nhân cung ứng dịch vụ đi chợ online, hay có khi gọi là đi chợ thuê. Ví dụ như Adayroi, 3sachfood, Đi Chợ Nhanh, đi chợ thuê, Đi chợ dùm bạn… Cụ thể, các đơn vị này sẽ đăng tải thông tin, giá cả các loại thực phẩm (bao gồm tươi sống, khô, đông lạnh không sơ chế hoặc có sơ chế, sản phẩm chế biến sẵn) trên website bán hàng. Nếu có nhu cầu đặt hàng, người tiêu dùng sẽ ấn trực tiếp vào sản phẩm trên website, cho vào giỏ hàng. Người tiêu dùng cũng có thể đặt hàng qua app, nhắn tin qua tổng đài hay gọi điện trực tiếp, nhắn tin qua Facebook.
Sau khi nhận được đơn hàng, đơn vị, cá nhân cung cấp dịch vụ sẽ xác nhận bằng điện thoại, tin nhắn; gửi hóa đơn qua email để người tiêu dùng kiểm tra loại thực phẩm cũng như tổng chi phí phải trả. Đơn hàng thường sẽ được chốt vào khoảng 21 - 22h mỗi ngày. Đơn hàng sẽ được bắt đầu giao cho người tiêu dùng từ 8h sáng tới 18h ngày hôm sau tùy yêu cầu.
Ông Phan Long - Giám đốc Công ty TNHH Green Healthy với dịch vụ đi chợ online có tên Đi Chợ Nhanh (đường Võ Văn Kiệt, quận 8) nhận xét: dịch vụ đi chợ online đang có nhiều tiềm năng và sẽ góp phần cải thiện năng suất lao động cùng dinh dưỡng mỗi bữa ăn cho các gia đình thành thị. Không chỉ là cung cấp thực phẩm sơ chế một cách thụ động theo yêu cầu của người tiêu dùng, với mỗi loại thực phẩm, Đi Chợ Nhanh còn cung cấp các kiến thức về loại thực phẩm đó cho người tiêu dùng (nguồn gốc xuất xứ, thành phần dinh dưỡng, cách bảo quản, cách chế biến…). Song song đó, sẽ sơ chế, đóng gói theo số lượng gần như chuẩn nhất định (ví dụ, bịch 100gr, bịch 250gr…) để việc sử dụng cho mỗi bữa ăn của người tiêu dùng được hợp lý, không bỏ thừa, không quá ngán.
Cũng theo ông Phan Long, hiện nay mỗi ngày Đi Chợ Nhanh nhận 7 - 12 đơn hàng, số lượng khách vào khoảng 400 người, trong đó có 30% khách sẽ quay lại và thêm khoảng 30% khách mới mỗi tháng. Giá trị bình quân một đơn hàng là 500.000 đồng. Nguồn hàng được chọn lọc từ các nhà cung cấp có thương hiệu.
Dự định tiếp theo của ông Phan Long là liên kết được với người trồng, người sản xuất để tạo ra vùng nguyên liệu ổn định, kiểm soát trực tiếp và chặt chẽ chất lượng sản phẩm. Nếu làm được điều này, không những đảm bảo nguồn gốc thực phẩm mà còn giảm chi phí trung gian, người nông dân, người sản xuất cũng có lợi mà công ty ông và người tiêu dùng cũng được hưởng lợi.
Bên cạnh tiềm năng, dịch vụ đi chợ online cũng có những khó khăn đặc thù. Khó khăn lớn nhất là dịch vụ giao nhận, tiếp nữa là nguồn thực phẩm, làm sao để luôn đảm bảo an toàn tối đa khi tới tay người tiêu dùng (có nghĩa không chỉ nguồn gốc xuất xứ sản phẩm an toàn mà quy trình sơ chế, đóng gói, bảo quản, vận chuyển cũng phải đạt kỹ thuật để đảm bảo an toàn tuyệt đối).
Bà Nguyễn Minh Nguyệt - chủ một tài khoản Facebook chuyên đi chợ giùm cho biết, có những hôm trời mưa, hay người giao hàng không biết đường, khi tìm được đến nhà khách thì thực phẩm đã không còn tươi ngon. Khi đó bà đành chấp nhận đền bù cho khách để giữ uy tín, theo đó, lợi nhuận cũng giảm.
Theo bà Minh Nguyệt, hiện tại mỗi ngày bà nhận trung bình từ 25 - 40 đơn hàng bao gồm cả thực phẩm tươi sống, thực phẩm sơ chế và chế biến sẵn. Tổng chi phí một đơn hàng dao động khá xa nhau, có khi chỉ khoảng 250.000 đồng nhưng cũng có khi đạt 2,5 triệu đồng.
MỘC NHIÊN/DNSGCT
- Details
- Category: Chiến Lược Ngành
- Hits: 4870